
Super User
Tin lượng bệnh nhân đái tháo đường bị Nocs
Nhóm thuốc incretin (bao gồm đồng vận của GLP-1 và ức chế DPP-4) có tác dụng cải thiện kết quả nhồi máu cơ tim ST không chênh lên (non-ST-elevation myocardial infarction (NSTEMI)) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 (ĐTĐ) và xơ vữa động mạch không tắc nghẽn (non-obstructive coronary artery stenosis (NOCS)) theo như một nghiên cứu được đăng trên tạp chí online Diabetes, Obesity and Metabolism ngày 26/9/2017.
TIN LƯỢNG BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG BỊ NOCS - NSTEMI ĐƯỢC CẢI THIỆN KHI SỬ DỤNG NHÓM THUỐC INCRETIN
Nhóm thuốc incretin (bao gồm đồng vận của GLP-1 và ức chế DPP-4) có tác dụng cải thiện kết quả nhồi máu cơ tim ST không chênh lên (non-ST-elevation myocardial infarction (NSTEMI)) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 (ĐTĐ) và xơ vữa động mạch không tắc nghẽn (non-obstructive coronary artery stenosis (NOCS)) theo như một nghiên cứu được đăng trên tạp chí online Diabetes, Obesity and Metabolism ngày 26/9/2017.
Tiến sỹ Raffaele Marfella từ Trường Đại học degli Studi della Campania, Ý và cộng sự đã so sánh tin lượng của những bệnh nhân bị NOCS (hẹp 20-49%), NSTEMI kèm theo bị ĐTĐ và bệnh nhân không bị ĐTĐ trong vòng 12 tháng. Họ cũng so sánh tin lượng của những bệnh nhân trước đó đã điều trị với nhóm thuốc incretin (6 tháng) và những bệnh nhân chưa bao giờ điều trị bằng incretin.
Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng tử vong do mọi nguyên nhân, tử vong do tim mạch, tái bị hội chứng mạch vàng cấp và suy tim ở bệnh nhân ĐTĐ cao hơn bệnh nhân không bị ĐTĐ. Trong số những bệnh nhân ĐTĐ, những người hiện đang sử dụng incretin có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, do bệnh lý tim mạch và tái bị hội chứng mạch vành cấp thấp hơn có ý nghĩa so với những bệnh nhân không sử dụng incretin trong suốt 12 tháng.
“Ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 bị NOCS-NSTEMI, chúng tôi quan sát thấy tỷ lệ tử vong một năm và những kết cục bất lợi về tim mạch cao hơn khi so sánh với những bệnh nhân bị NOCS-NSTEMI không kèm ĐTĐ. Đối với những bệnh nhân ĐTĐ chưa bao giờ sử dụng incretin có tin lượng xấu hơn khi so sánh với những bệnh nhân hiện đang sử dụng incretin”, các tác giả kết luận.
FRIDAY, Oct. 27, 2017 (HealthDay News), Physician’s Briefing
Thực trạng tình hình thiếu I ốt hiện nay tại Việt Nam
I ốt là vi chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tổng hợp hormon tuyến giáp (T3 và T4). Các hormon này đóng vai trò quan trọng trong các quá trình chuyển hóa của cơ thể, đặc biệt quan trọng là giai đoạn hình thành và phát triển hệ thần kinh trung ương từ giai đoạn bào thai đến trẻ nhỏ. Do vậy, thiếu I ốt gây ra nhiều hậu quả khác nhau tùy theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể. Bướu cổ là mức độ nhẹ nhất của các rối loạn do thiếu I ốt (CRLTI), các mức độ nặng hơn, phổ biến hơn nhưng chúng ta khó nhận biết được đó là suy giáp, giảm trí thông minh, đần độn. Người phụ nữ mang thai nếu bị thiếu I ốt con sinh ra có nguy cơ cao bị suy giáp, giảm trí thông minh và nặng hơn là đần độn.
I ốt nằm trong đất lớp vỏ bề mặt của trái đât. Do mưa lũ, đất bề mặt (có chứa I ốt ) bị bào mòn cuốn trôi ra biển. Trải qua hàng nghìn năm, tại những khu vực bì bào mòn nhiều không còn I ốt nữa. Cây sống tại khu vực thiếu I ốt cũng sẽ bị thiếu I ốt. Động vật ăn thực vật thiếu I ốt, uống nước thiếu I ốt cũng bị thiếu I ốt. Do vậy, con người sống ở khu vực thiếu I ốt cũng bị thiếu I ốt do thực phẩm ăn vào bị thiếu I ốt.
Có nhiều biện pháp phòng chống thiếu i-ốt, một trong những biện pháp đó là bổ sung i-ốt vào muối ăn. Các nghiên cứu trong và ngoài nuớc đều cho thấy : đây là biện pháp phòng bệnh có hiệu quả nhất, đơn giản nhất và chi phí thấp nhất. Việc bổ sung i-ốt phải diễn ra thường xuyên đều đặn hàng ngày, trong suốt cả đời người.
Trên thế giới, các kết quả điều tra cho thấy hiện nay có khoảng 2,2 tỷ người sống trong khu vực bị thiếu i-ốt. Khu vực thiếu i-ốt không chỉ là những vùng núi cao như Hymalayas, Alpes mà còn cả những khu vực thấp như lục địa Châu Phi, phía đông của Châu Âu…
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực bị thiếu i-ốt. Điều tra quốc gia đầu tiên về tình trạng thiếu i-ốt năm 1993 cho thấy: tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8-12 tuổi là 22%, mức trung vị i-ốt niệu là 32 mcg/l (mức khuyến cáo không bị thiếu i-ốt của Tổ chức Y tế thế giới là mức trung vị i-ốt niệu 100 mcg/l). Như vây, 94% người dân Việt Nam sống trong vùng bị thiếu i-ốt. Thiếu i-ốt không chỉ ở miền núi mà còn có cả ở đồng bằng và ven biển.
Trước thực trạng thiếu I ốt đó, ngày 2/11/1993 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 481/QĐ-TTg về việc “Vận động toàn dân mua và sử dụng muối i-ốt” nhằm khuyến khích người dân sử dụng muối i-ốt để phòng chống CRLTI, bảo vệ sức khỏe và trí tuệ của giống nòi. Chính vì vậy, để tuyên truyền công tác phòng chống CRLTI, hàng năm Bộ Y tế lấy ngày 2/11 là ngày toàn dân đi mua và sử dụng muối I ốt.
Năm 2005, được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; sự phối hợp, hỗ trợ của các Bộ/ngành, của Chính quyền các cấp, các Tổ chức quốc tế như UNICEF, CEMUBAC… Bộ Y tế đã chỉ đạo thực hiện hoàn thành mục tiêu thanh toán tình trạng thiếu hụt i-ốt tại Việt Nam của Chương trình quốc gia phòng chống CRLTI và được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Các mục tiêu thanh toán tình trạng thiếu i-ốt chúng ta đã đạt được theo tiêu chuẩn quốc tế:
1) Tỷ lệ bao phủ muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh tại hộ gia đình đạt từ 90% trở lên (thực tế Việt nam đã đạt : 93,1%)
2) Mức i-ốt niệu trung vị đạt từ 100 mcg/L trở lên (thực tế Việt nam đã đạt : 122 mcg/L)
3) Tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em từ 8 đến 10 tuổi phải thấp hơn 5% (thực tế Việt nam đã đạt : 3,6%)
Tuy nhiên, sau khi hoàn thành mục tiêu thanh toán tình trạng thiếu i-ốt, Chương trình quốc gia phòng chống các rối loạn thiếu i ốt đã trở thành hoạt động thường xuyên của Bộ Y tế. Nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động phòng chống CRLTI là duy trì bền vững kết quả đã đạt được. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tình trạng thiếu I ốt đã quay trở lại nước ta.
Các điều tra của Bệnh viện Nội tiết TW dưới sự giúp đỡ của UNICEF năm 2008 – 2009 đã cho thấy tỷ lệ hộ gia đình sử dụng muối i ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh toàn quốc giảm xuống còn 69.5%, mức trung vị i ốt niệu chỉ còn 83 mcg/l. Điều tra tỷ lệ bướu cổ học sinh 8-10 tuổi toàn quốc năm 2013-2014 cho thấy tỷ lệ bướu cổ là 9,8%; mức trung vị i ốt niệu là 84 mcg/l. Đây thực sự là những con số hết sức báo động về tình hình thiếu hụt i ốt tại Việt Nam hiện nay.
Để khắc phục nguy cơ thiếu hụt i-ốt quay trở lại, duy trì kết quả đạt được năm 2005, Bộ Y tế đã chấp thuận đưa Chương trình phòng chống CRLTI từ hoạt động thường xuyên của Bộ Y tế vào Chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016 – 2020 báo cáo Chính phủ. Ngày 31/7/2017 Thủ tướng ký Quyết định 1125/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chương trình Mục tiêu y tế - dân số giai đoạn 2016 – 2020, trong đó Dự án Phòng chống CRLTI.
Ngày 28 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 09/2016/NĐ-CP Quy định về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm. Nghị định quy định rõ muối dùng để ăn trực tiếp, dùng trong chế biến thực phẩm bắt buộc phải bổ sung i ốt. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta có thể đạt và duy trì bền vững kết quả thanh toán CRLTI mà chúng ta đã đạt được năm 2005.
Đối với mỗi người dân chúng ta, để phòng chống CRLTI, chúng ta hãy sử dụng muối I ốt, các gia vị mặn có bổ sung I ốt như bột canh I ốt, bột nêm I ôt hàng ngày.
Cảm nghĩ về bài nói của Giáo Sư Osama Hamdy
Tại Hội thảo các chuyên gia hàng đầu Việt Nam về đái tháo đường do Công ty ABBOTT tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Osama Hamdy đến từ Đại học Y khoa Harvard đã trình bày các nghiên cứu tại Hoa Kỳ với chủ đề “Can thiệp thay đổi lối sống trong quản lý bệnh đái tháo đường”.
Bài nói của GS. Hamdy đề cập đến hiệu quả can thiệp thay đổi lối sống trong đó có chế độ dinh dưỡng điều trị bổ sung chế độ dinh dưỡng chuyên biệt. Tuy nhiên, GS. Hamdy đã nói đến nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Tôi thật sự tâm đắc với bài nói của Giáo sư vì tôi vừa là bác sỹ điều trị vừa là bác sỹ dinh dưỡng lâm sàng nên trong thực hành lâm sàng có những vấn đề nẩy sinh cũng như hơi khác so với guideline hướng dẫn điều trị bệnh, tôi có thể tóm tắt như sau (bài viết theo quan điểm cá nhân của tôi):
- Khỏi bệnh ĐTĐ?: Một số bệnh nhân (hầu hết là trẻ) sau khi điều chỉnh chế độ ăn, tập luyện đã dần không sử dụng thuốc trong nhiều năm nay (đến thời điểm hiện nay), tôi thường giải thích là bệnh ổn định. Tuy nhiên, GS. Hamdy sau khi dẫn chứng bệnh nhân của GS đã đưa ra khái niệm “Khỏi bệnh ĐTĐ”. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe một chuyên gia hàng đầu thế giới nói những từ này. Có lẽ vấn đề còn phải kiểm chứng nhiều nhưng thực sự đó là sự động viên khích lệ rất lớn bác sỹ dinh dưỡng lâm sàng cũng như người bệnh.
- Quan điểm sử dụng thuốc: Giáo sư cho rằng, hiện nay, trên lâm sàng các bác sỹ chỉ tập trung vào kiểm soát HbA1C. Các Guideline hướng dẫn đều nhấn mạnh nếu không kiểm soát được bằng thay đổi lối sống thì bắt đầu dùng thuốc, nếu không đạt lại tiếp tục phối hợp thuốc sao cho đạt mục tiêu. Giáo sư nhấn mạnh thay đổi lối sống là nền tảng của điều trị. Tất cả các thuốc đều có tác dụng phụ. Mục tiêu của điều trị nên tập trung vào giảm cân (chủ yếu giảm mỡ nội tạng) bằng thay đổi lối sống (con đường tự nhiên) như vậy giảm thuốc điều trị, hạn chế tác dụng phụ của thuốc, chất lượng cuộc sống được cải thiện theo hướng tốt hơn so với tăng thuốc điều trị.
- Tập luyện: Các Guideline hướng dẫn khuyến cáo tập luyện ưa khí (như đi bộ, đạp xe, bơi…) ít nhất 30 phút mỗi ngày, đạt 150 phút/tuần, nếu tập đối kháng thì 2 buổi/tuần. Tác dụng tập luyện là rõ. Tuy nhiên, tôi luôn khuyến cáo bệnh nhân duy trì tập hàng ngày và tập đối kháng kết hợp với tập luyện dẻo dai. Bản thân tôi cũng là người tập gym hàng ngày nên tôi nhận thấy nếu không duy trì tập liên tục (đều đặn hàng ngày), chỉ tập ngắt quãng là có rất nhiều lý do để ngừng tập. Mặt khác trong tập luyện cần phải tập sức mạnh, đối kháng thì mới tăng cường được cơ bắp, giảm mỡ bụng (tất nhiên tập đối kháng tùy theo tình trạng sức khỏe, tuổi) vì tuổi càng tăng thì cơ vân xu hướng mất đi và tăng tổ chức mỡ. Giáo sư Hamdy đã nhấn mạnh cần tập luyện hàng ngày vì như vậy sẽ tạo thành thói quen và người bệnh mới duy trì bền vững được. Theo Giáo sư, nếu chỉ đi bộ thì ngoài giảm mỡ còn kèm theo mất cơ vân. Do vậy, nên tập phối hợp với tập luyện đối kháng như vậy vừa đạt được giảm mỡ vừa duy trì và tăng khối cơ vân. Đây thực sự là điều người bệnh đặc biệt người có tuổi cần lưu ý khi tập luyện.
Trên đây là một số vấn đề tôi thực sự tâm đắc trong bài nói của Giáo sư Hamdy và mong muốn chia sẻ cùng các đồng nghiệp và những bệnh ĐTĐ cũng như những người đang thực hành dinh dưỡng, tập luyện để phòng bệnh ĐTĐ.
Hà Nội, ngày 10/3/2018
TS. Phan Hướng Dương